Đủ duyên sẽ gặp
https://ngotoc.vn/Danh-nhan-ho-Ngo/thai-hau-ngo-thi-ngoc-dao-mot-nhan-cach-mot-tam-guong-duc-hanh-430.html
Ngô Thị Ngọc Dao (1420 - 1496) còn gọi là Quang thục Hoàng Thái hậu là mẹ đẻ của vua Lê Thánh Tông. Bà là người có công lớn với 3 vị hoàng đế triều Lê, đặc biệt là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, nhân cách, công đức và sự nghiệp của Lê Thánh Tông, 1 trong những vị quốc vương sáng nhất trong lịch sử các triều đại Phong kiến Việt Nam.
Ngọc Dao vốn là con gái của Diên ý Dụ Vương Ngô Từ, một khai quốc công thần triều Lê Sơ, được phong Thái bảo vì có công trông giữ cứ địa, cung cấp quân lương ngay trong những ngày đầu kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Mẹ bà là Đinh Thị Ngọc Kế, con gái của Hiển Khánh vương Đinh Lễ.
Phả cũ chép rằng: Khi sinh Ngô Thị Ngọc Dao bà mẹ thấy Tiên trên cung trăng xuống nhà, tỉnh giấc trong nhà có mùi hương lạ, trong không trung có tiếng nhạc âm điệu khác thường. Lớn lên Ngọc Dao thường ở bên ngoại, khi ra đồng làm ruộng có đám mây ngũ sắc che trên đầu, trẻ chăn trâu thường đi theo đều được che mưa nắng.
(Có tài liệu nói rằng Ngô Thị Ngọc Dao mồ côi mẹ từ nhỏ nên được bà ngoại nuôi).
Năm 1434 Lê Nguyên Long, con trai thứ 2 của vua Lê Thái Tổ lên ngôi, tức vua Lê Thái Tông. Năm 1436 khi 16 tuổi, nhân có chị ruột là Ngọc Xuân vốn là cung nhân của Thái tổ Lê Lợi còn đang ở trong cung, Ngọc Dao vào chơi với chị, được vua Lê Thái Tông để ý, cho giữ lại làm cung nhân.
Tháng 6 năm Canh Thân 1440 Ngọc Dao được phong Tiệp Dư, cho ngự ở cung Khánh Phương. (Tiệp Dư là bậc cung tần sau tam phi và cửu tần, đứng đầu sáu chức cung giai, lo việc tiếp khách trong cung, phẩm cấp tương đương tước Hầu của triều đình). Ngọc Dao dạy con em các nhà trong triều tư cách cử chỉ ăn nói, biết lễ nghi, phép tắc đối với người trên, lấy ân đãi người dưới … Nhà vua rất yêu quý. Bà sinh con đầu lòng là Công chúa Diên Trường, đến năm 1442 sinh Tư Thành, sau này là vua Lê Thánh Tông.
Lê Thái Tông là vị vua thông minh, quyết đoán nhưng là người có tính khí thất thường lại ham chơi. Lê Lợi vì giữ lời hứa trước kia với người vợ đã khuất nên mới truyền ngôi cho.
Nguyên bà Phạm Thị Ngọc Trần (mẹ Lê Nguyên Long) là một trong những người vợ của Lê Lợi, thủa hàn vi bà một lòng một dạ theo chồng, kể cả những lúc khó khăn gian khổ nhất, giúp Lê Lợi và nghĩa quân chống giặc. Truyện chép rằng: Tháng 3 năm 1425, Lê Lợi tiến quân vây thành Nghệ An, giặc Minh ra sức chống giữ, thế lực chưa phân thắng bại. Quân doanh của Lê Lợi tạm đóng cạnh đền thờ thần Phổ Hộ bên bờ sông Lam thuộc làng Trào Khẩu, đêm ngủ Lê Lợi chiêm bao thấy một vị thần báo mộng cho mình rằng: “Tướng quân nhường cho tôi một người thiếp, tôi hứa hết sức phù hộ tướng quân đánh thắng giặc, giữ vững nghiệp đế”. Tỉnh dậy nghĩ lại những chuyện xưa, hôm sau Lê Lợi cho gọi tất cả những người vợ của mình đến hỏi rằng: “Có ai chịu đi làm vợ thủy thần không? Sau này khi ta lấy được nước, sẽ lập con của người đó làm thiên tử”. Các bà phi đều im lặng, không nói gì. Chỉ có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu vì nghiệp lớn của Minh Công thì thiếp tự nguyện xả thân; ngày sau mong Minh Công giữ lời hứa, chớ phụ con thiếp”. Lê Lợi vô cùng cảm kích. Khi đó Nguyên Long mới có 2 tuổi.
Khi đã lên làm vua, Thái Tông Lê Nguyên Long được bọn nịnh thần xúi bẩy làm nhiều điều không hay, lại thêm bà phi thứ tư là Nguyễn Thị Anh hay xúc xiểm hãm hại người lành, làm cho trong cung ngoài nội xảy ra nhiều vụ việc không lành mạnh.
Lúc bấy giờ Nguyễn Thị Lộ, một vợ trẻ của Nguyễn Trãi được Thái Tông đưa vào trong cung trao chức Lễ nghi Học sỹ dạy các cung nữ, gặp Ngô Thị Ngọc Dao, hai người thành bạn thân. Nguyễn Trãi và Ngô Từ nhân đó muốn thông qua hai ngưòi, tìm cách ngăn chặn bớt những việc làm không hay của Thái Tông, dần dần làm cho nhà vua tỉnh ngộ mà cứu vãn tình thế. Hai người đã giúp Thái Tông thấy ra được một số vấn đề. Khi mới lên ngôi Nguyên Long không tin dùng Nguyễn Trái, ông phải lui về ẩn cư ở Côn Sơn. Do tác động của Ngô Thị Ngọc Dao và Nguyễn Thị Lộ, Thái Tông đã cho mời Nguyễn Trãi trở lại giúp lo việc an dân trị quốc, nhưng vẫn được ở Côn Sơn, thỉnh thoảng mới về triều.
Thái Tông Lê Nguyên Long có nhiều vợ, trong đó có Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Huệ phi Lê Nhật Lệ và Ngô Thị Ngọc Dao. Con trai đầu là Nghi Dân do Dương Thị Bí sinh đã được lập làm Thái tử, Nguyễn Thị Anh sau khi sinh Bang Cơ bèn xúi dục nhà vua tìm cớ phế Nghi Dân, lập Bang Cơ mới hai tuổi lên làm Thái tử.
Thấy Huệ phi Lê Nhật Lệ là con gái Lê Ngân, người đang có quyền cao trong triều, nếu sinh con trai thì ngôi Thái tử của Bang Cơ con mình dễ bị lung lay, bèn bày mưu hiểm độc hại Nhật Lệ. Thị Anh nói với Thái Tông là trong nhà Lê Ngân có điện thờ, ngày ngày cầu khấn cho nhà vua yêu quý Huệ phi. Nhà vua sai quan đến nhà xem xét, thấy quả có điện thờ, bèn triệu Lê Ngân vào cung hỏi tội và buộc uống thuốc độc chết, rồi giáng Huệ phi xuống hàng Tu dung trong số cửu tần.
Sau khi đã hãm hại được Huệ phi, nghe câu chuyện Ngọc Dao mộng Kim Đồng, lại đang có thai, Nguyễn Thị Anh nghĩ rằng nếu Ngọc Dao sinh quý tử thì sẽ giành mất ngôi Thái tử của con mình, phải trừ ngay Ngọc Dao trước ngày sinh nở.
(Nguyên phả cũ chép: sau ngày sinh con gái, Ngọc Dao đi cầu tự ở chùa Huy Văn, mộng thấy sứ giả áo đỏ dẫn lên Thiên đình, Thượng đế sai Kim đồng xuống đầu thai, Kim đồng không chịu đi, Thượng đế giận cầm hốt ngọc đánh vào trán chảy máu, Kim đồng sợ quá chịu đi. Thượng đế lại sai Ngọc nữ xuống trần để làm bạn với Kim đồng, Ngọc nữ đầu thai vào nhà họ Nguyễn, Tư Thành sinh ra có sẹo ở trán, lớn dần thành hình chữ vương).
Thị Anh bèn xúc xiểm với Nhà vua là Ngọc Dao có dính líu vụ Huệ phi, đang có âm mưu giết Thái tử. Lại tính ra Ngọc Dao có thai đã quá 10 tháng mà chưa sinh, rõ ràng là yêu quái hiện vào báo hại Hoàng gia. Nguyên Long cả nghe xúc xiểm, sai cung nỏ nhằm bụng chửa của Ngọc Dao mà bắn để trừ ma quỷ. Vừa lúc có vị Hoàng thân biết chuyện, can thiệp nên Ngọc Dao không bị bắn mà chuyển tội voi dày. Nguyễn Trãi bảo Nguyễn Thị Lộ can gián, Nguyễn Thị Lộ khuyên nhà vua không nên nghe lời xúc xiểm không đâu mà làm một việc quá ư thất đức. Nhà vua nghe lời Thị Lộ, cho Ngọc Dao được ra ở chùa Huy Văn trong kinh thành Đông Kinh (nay là chùa Dục Khánh, ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội).
Được Nguyễn Thị Lộ chăm lo săn sóc, ngày 20 tháng 7 Năm 1442 Ngọc Dao sinh hạ người con trai út của Thái Tông là Lê Tư Thành (Tư Thành chào đời trong chùa Huy Văn, nơi gốc cây chuối sau sân chùa). Sau thấy chùa Huy Văn vẫn chưa phải là nơi an toàn, Nguyễn Trãi thu xếp cho mẹ con Ngọc Dao lánh ra trấn An Bang (nay thuộc vùng Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh). Tất cả mọi chuyện đều đến tai Nguyễn Thị Anh, kết thành mối thâm thù giữa Nguyễn Thị Anh với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
(Cũng có thuyết cho rằng lúc Ngọc Dao phải ra ở chùa Huy Văn, đại thần Đinh Liệt sợ Ngọc Dao gặp nạn, liền bí mật đưa về Đô Kỳ để sinh và lánh nạn. Khi võng cáng về đến cầu Tray, nơi tiếp giáp giữa hai huyện Duyên Hà và Thần Khê thì bà trở dạ đẻ, không thể đi được nữa. Sợ triều đình truy đuổi làm liên luỵ đến mọi người, bà Ngọc Giao cho thắp hương khấn trời đất cho được sinh nở. Lê Tư Thành được sinh ra tại làng này, rồi được đưa đến trấn An Bang).
Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Tư Thành đã được mẹ dạy dỗ từ cách ứng xử đến chữ nghĩa văn chương cùng võ nghệ. Tư chất thông minh của Lê Tư Thành càng ngày càng được hiển lộ của một bậc đế vương.
Hoàng tử Tư Thành ra đời mới được vài tháng thì xảy ra vụ án Lệ Chi Viên. Ngày 4 tháng 8 năm 1442, Thái Tông Văn hoàng đế chết đột ngột ở Lệ Chi Viên, tục gọi là Trại Vải, ở làng Đại Lại, nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Mấy ngày sau, ngày 12 tháng 8, Thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi, tức Hoàng đế Lê Nhân Tông.
Ngày 16 tháng 8 năm 1442, Nguyễn Trãi bị triều đình khép tội giết Tiên đế Thái Tông và bị tru di tam tộc. Sau sự việc này, Thần phi Nguyễn Thị Anh chính thức trở thành Hoàng Thái hậu nhiếp chính, bắt đầu giai đoạn điều hành chính sự hơn 10 năm của mình.
Đến năm Tư Thành bốn tuổi thì Tuyên Từ thái hậu Nguyễn Thị Anh mới ăn năn cho người đi tìm, rước mẹ con bà Ngọc Dao về Kinh, phong cho Tư Thành làm Bình Nguyên Vương, bà Ngọc Dao được thăng làm Sung Viên cho ra phụng sự nhà Thái miếu.
Bang Cơ ở ngôi được 17 năm, ngày 3 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân cùng các thủ hạ tin cậy đem hơn trăm quân vào cung cấm giết chết, hôm sau giết luôn Thái hậu. Nghi Dân lên ngôi, Tư Thành không bị Nghi Dân sát hại, nhưng phải cải phong làm Gia vương.
Chín tháng sau diễn ra một cuộc đảo chính thứ hai. Tháng 6 năm Canh Thìn 1460 các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Nguyễn Đức Trung, Ngô Khế… làm binh biến giết chết Lê Nghi Dân và đưa Gia vương Tư Thành lên ngôi, tức Lê Thánh Tông. Lên làm vua, Tư Thành ra chùa Huy Văn đón mẹ vào cung. Ngô Thị Ngọc Dao nói: “Nay mẹ tuổi đã cao, ăn chay niệm Phật đã quen, con để mẹ ở ngoài chùa này, cho yên tĩnh tuổi già”. Nhà vua bèn sai dựng thêm điện cho mẹ ở, tôn làm Quang Thục Hoàng Thái hậu, hàng tuần ra chùa thăm mẹ.
Ngô Thị Ngọc Dao là người có tư chất cao quý thuần hòa, thông minh mẫn tiệp, lại được sinh ra trong một gia đình vương hầu khanh tướng, thừa hưởng một nền giáo dục gia giáo theo khuôn vàng thước ngọc của Đạo Khổng, nên lớn lên trở thành một cô gái nết na hiền dịu, trọn đời với lối sống mẫu mực đoan trang. Các việc nữ công nữ tắc như may vá thêu thùa, cỗ bàn cơm rượu bà thường đều tự tay làm. Bà cẩn thận kỹ càng từ nét mặt dáng đi, xiêm y luôn tề chỉnh, đối xử với mọi người luôn giữ vẻ ôn hòa, đôn hậu.
Tuy ở ngôi cao nhưng Ngọc Dao luôn luôn cần kiệm, không bao giờ sống xa hoa, cũng không bao giờ cậy thế để tham dự việc triều chính. Bà luôn cẩn trọng trong các nghi lễ, nghiêm trang cung kính nơi tông miếu. Mỗi khi các nơi đưa của ngon vật lạ đến dâng tiến, bà đều cho lệnh phải dâng cúng trước rồi mới tiến cho vua dùng.
Tuy nghiêm khắc nhưng bà thường thương xót chu cấp cho người nghèo. Khi Thiếu phủ cung cấp vàng lụa, bà đều đem ban cho mọi người. Từ con cháu đến kẻ hầu người hạ ai cũng nhận được sự thương mến của bà. Vì vậy ở trong cung, mọi người đều tôn gọi bà là “Phật sống”.
Ngô Thị Ngọc Dao được các đại thần đương triều đánh giá rất cao và cho rằng bà là người có công lớn với xã tắc, đặc biệt là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông, nuôi dạy đức vua từ nhỏ đến lúc trưởng thành, luôn kề vai sát cánh cùng đức vua trong quá trình cai trị đất nước, giáo hóa nhân dân.
Ngày 26 tháng 2 (nhuận) Năm 1496, Ngô Thái hậu qua đời, thọ 76 tuổi. Sau khi bái yến Lam Kinh, bà bị bệnh nặng rồi mất tại Thừa Hoa điện(*). Lê Thánh Tông đau buồn, truy tôn bà làm Quang thục Hoàng Thái hậu, về sau tôn xưng Quang thục Văn Hoàng hậu.
Sau khi mất, di hài bà được đưa về an táng tại Sơn Lăng (Lam Kinh), cách Vĩnh Lăng khoảng 500m về phía đông. Triều đình sau này còn cho dựng bia ghi rõ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp, công đức của Hoàng Thái hậu. Tác giả soạn văn bia là những bậc đại danh nho nổi tiếng như: Nguyễn Bảo, Nguyễn Xung Xác; người khắc chữ, các nghệ nhân điêu khắc trang trí trên bia đều là nghệ nhân chuyên nghiệp được triều đình tuyển chọn. Bia là một công trình có giá trị cao về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử, năm 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Bảo vật quốc gia. Nội dung văn bia Sơn Lăng có những đoạn viết:
“Hoàng Thái hậu ở Đông Triều, ăn chay niệm phật thanh đạm, sáng suốt, khỏe mạnh sống lâu rất là vui vẻ, lấy kiệm cần mà răn dạy người đời, lấy nhân hậu mà nhắc nhủ quan gia.
Thánh tông Hoàng đế tài cao đức lớn, anh dũng thông minh, biết nghe từng lời mẹ dạy, ngày đêm chăm lo lễ nhạc văn chương, phát huy pháp luật, thuần phong mỹ tục, mỗi đổi thay, hoàn hảo đều có công của Hoàng Thái hậu”…
“Lúc Hoàng Thái hậu mới bị mệt nặng, Thánh Thượng Hoàng đế lúc đó và Hoàng Thái tử ngày đêm chầu chực bên giừơng bệnh, thuốc thang cơm nước tự vua nếm trước. Trong thì cúng tổ tiên, ngoài thì nghe dân chúng cầu khấn các thần không thiếu nơi nào. Khi bà không cử động được nữa, không mong cầu được, vua tự đặt hiệu mà gọi rồi kêu khóc, Hoàng Thái hậu vì thế cố mở miệng muốn nói mà không ra tiếng. Việc khâm liệm, phạm hàm đều do vua tự làm, viết điếu văn, đặt quan tài ở điện để viếng…”
Ở xã Định Hòa huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa hiện có đền thờ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Đền được mang tên Đền Thánh Mẫu, nằm trong quần thể Di Tích văn hoá Đồng Phang, gồm: Đền Thánh Mẫu, Phúc quang Từ đường và chùa Thiên Phúc.
Nguyên năm Mậu Tý niên hiệu Quang thuận thứ 9 (1468), Lê Thánh Tông cho xây Thuần Mậu Đường tại Đồng Bàng hương (Tức Đồng Phang – nay là xã Định Hoà), đất ngoại Tổ để phụng dưỡng mẫu hậu mỗi khi về thăm quê ngoại. Đến năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ 4 (1473) Thuần Mậu Đường được trùng tu và cải tên thành Thừa Hoa Điện. Sau khi Thái Hậu qua đời, Thừa Hoa Điện trở thành nơi thờ tự Hoàng Thái hậu và mang tên Đền Thờ Thánh Mẫu. Hàng năm ngày 26 tháng 3 là ngày huý nhật của Thánh Mẫu, 4 giáp 6 làng Đồng Phang hương khói phụng thờ.
Trước đây Đền là một công trình quy mô, được xây theo lối kiến trúc phương Đông, mang đậm dấu ấn văn hoá thời Lê. Theo lệ hàng năm lễ hội Kỵ Đền được các quan chức triều đình tiến hành nghi lễ từ ngày 23 đến 26/3. Trong những ngày này, con cháu họ Ngô và khách thập phương khắp nơi đổ về Đồng Phang dâng hương dự hội. Đây là một lễ hội truyền thống với các nghi thức trang trọng và quy mô lớn nhằm tôn vinh đức hạnh của những bậc thánh nhân, đặc biệt là công đức, phẩm hạnh của Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao.
Trong phong trào chống phong kiến, bài trừ mê tín dị đoan của những năm giữa thế kỷ trước, Đền thờ Thánh mẫu và Phúc quang Từ đường đã bị phá bỏ. Những năm gần đây nhân dân địa phương mới xây lại được một số hạng mục với quy mô nhỏ hẹp. Ngày 11/9/1995, Bộ Văn hoá - Thông tin có quyết định công nhận cụm Di tích lịch sử Đồng Phang, xã Định Hoà, Yên Định, Thanh Hóa là di tích cấp nhà nước. Hiện nay chính quyền và nhân dân địa phương đang triển khai dự án tôn tạo, nâng cấp khu di tích lịch sử văn hóa Đồng Phang khang trang, đẹp đẽ, tiến tới trở thành một trung tâm văn hóa lịch sử, một điểm đến du lịch văn hóa tâm linh của miền đất xứ Thanh và của cả nước.
Ngô Văn Xuân
(Bài tổng hợp)
Ghi chú:
(*) Về địa điểm và năm mất của Quang Thục Hoàng Thái hậu, hiện nay có hai luồng thông tin khác nhau:
- Luồng thứ nhất: Hầu hết các thư tịch cổ như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử , Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Văn bia Sơn lăng...Tất cả đều cho rằng bà mất vào ngày 26 tháng 2 (nhuận) năm Bính Thìn (1496), thọ 76 tuổi.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi rõ Thái hậu Ngọc Dao mất vào giờ Hợi vì bị cảm nặng sau khi về bái yết Lam Kinh (Thanh Hóa). Còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử và văn bia Sơn lăng thì chép bà mất vì bệnh kiết lỵ. Về nơi mất, nhóm sách này đều viết bà mất ở điện Thừa Hoa, tức nơi ở của bà ở kinh đô Thăng Long.
- Luồng thứ hai: Riêng 25 đạo sắc phong và gia phả họ Phan hiện còn lưu giữ ở xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh thì ghi Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao mất ngày 25 tháng 3 năm Tân Mão (1471), khi mới 50 tuổi.
Ở Đức Thịnh lưu hành một truyền thuyết rằng: năm 1471, sau khi cùng con là vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về, dọc đường Hoàng Thái hậu lâm bệnh nặng và mất tại cửa Sót (nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Nhà vua đành phải mai táng mẹ tại trang Đồng Cần, xã Quang Chiêm (nay thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Chẳng bao lâu sau, vua sai người chọn đất, cải táng hài cốt của bà về vị trí cũng gần đó. Trước khi trở về Thăng Long, vua Lê còn cấp trăm công đất cho cậu ruột (em Thái hậu Ngọc Dao) cùng năm người họ Phan, vốn là bà con bên ngoại của Thái hậu, ở lại canh tác, lấy hoa lợi, lo việc tế tự và trông coi mộ phần. Kể từ đó, ở trang Đồng Cần mới có một chi họ Phan, mà nguồn gốc ở Thanh Hóa. Để tưởng nhớ công đức của Hoàng Thái hậu, nhân dân địa phương đã lập đền thờ bà, gọi là đền Đồng Cần.
Có lẽ đây là những thông tin được chính quyền địa phương viết trong hồ sơ xin cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa đối với đền Đồng Cần thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Căn cứ đề nghị của địa phương và hồ sơ gửi kèm, ngày 24 tháng 1 năm 1998 Bộ Văn hóa - Thông tin đã cấp Bằng xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia cho đền Đồng Cần, nơi được cho là thờ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Có thể đây là một sự nhầm lẫn đáng tiếc về lịch sử.
Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao: một nhân cách, một tấm gương đức hạnh
Nhân dịp 522 năm ngày giỗ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao (26/3 Âm lịch) và huyện Yên Định, Thanh Hóa tổ chức lễ khởi công tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử Điện Thừa Hoa, HNVN xin trân trọng giới thiệu đôi nét về cuộc đời, sự nghiệp, nhân cách và đức hạnh của bà, người từng được tôn xưng là "Mẫu nghi thiên hạ".
Ngô Thị Ngọc Dao (1420 - 1496) còn gọi là Quang thục Hoàng Thái hậu là mẹ đẻ của vua Lê Thánh Tông. Bà là người có công lớn với 3 vị hoàng đế triều Lê, đặc biệt là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, nhân cách, công đức và sự nghiệp của Lê Thánh Tông, 1 trong những vị quốc vương sáng nhất trong lịch sử các triều đại Phong kiến Việt Nam.
Ngọc Dao vốn là con gái của Diên ý Dụ Vương Ngô Từ, một khai quốc công thần triều Lê Sơ, được phong Thái bảo vì có công trông giữ cứ địa, cung cấp quân lương ngay trong những ngày đầu kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Mẹ bà là Đinh Thị Ngọc Kế, con gái của Hiển Khánh vương Đinh Lễ.
Phả cũ chép rằng: Khi sinh Ngô Thị Ngọc Dao bà mẹ thấy Tiên trên cung trăng xuống nhà, tỉnh giấc trong nhà có mùi hương lạ, trong không trung có tiếng nhạc âm điệu khác thường. Lớn lên Ngọc Dao thường ở bên ngoại, khi ra đồng làm ruộng có đám mây ngũ sắc che trên đầu, trẻ chăn trâu thường đi theo đều được che mưa nắng.
(Có tài liệu nói rằng Ngô Thị Ngọc Dao mồ côi mẹ từ nhỏ nên được bà ngoại nuôi).
Năm 1434 Lê Nguyên Long, con trai thứ 2 của vua Lê Thái Tổ lên ngôi, tức vua Lê Thái Tông. Năm 1436 khi 16 tuổi, nhân có chị ruột là Ngọc Xuân vốn là cung nhân của Thái tổ Lê Lợi còn đang ở trong cung, Ngọc Dao vào chơi với chị, được vua Lê Thái Tông để ý, cho giữ lại làm cung nhân.
Tháng 6 năm Canh Thân 1440 Ngọc Dao được phong Tiệp Dư, cho ngự ở cung Khánh Phương. (Tiệp Dư là bậc cung tần sau tam phi và cửu tần, đứng đầu sáu chức cung giai, lo việc tiếp khách trong cung, phẩm cấp tương đương tước Hầu của triều đình). Ngọc Dao dạy con em các nhà trong triều tư cách cử chỉ ăn nói, biết lễ nghi, phép tắc đối với người trên, lấy ân đãi người dưới … Nhà vua rất yêu quý. Bà sinh con đầu lòng là Công chúa Diên Trường, đến năm 1442 sinh Tư Thành, sau này là vua Lê Thánh Tông.
Lê Thái Tông là vị vua thông minh, quyết đoán nhưng là người có tính khí thất thường lại ham chơi. Lê Lợi vì giữ lời hứa trước kia với người vợ đã khuất nên mới truyền ngôi cho.
Nguyên bà Phạm Thị Ngọc Trần (mẹ Lê Nguyên Long) là một trong những người vợ của Lê Lợi, thủa hàn vi bà một lòng một dạ theo chồng, kể cả những lúc khó khăn gian khổ nhất, giúp Lê Lợi và nghĩa quân chống giặc. Truyện chép rằng: Tháng 3 năm 1425, Lê Lợi tiến quân vây thành Nghệ An, giặc Minh ra sức chống giữ, thế lực chưa phân thắng bại. Quân doanh của Lê Lợi tạm đóng cạnh đền thờ thần Phổ Hộ bên bờ sông Lam thuộc làng Trào Khẩu, đêm ngủ Lê Lợi chiêm bao thấy một vị thần báo mộng cho mình rằng: “Tướng quân nhường cho tôi một người thiếp, tôi hứa hết sức phù hộ tướng quân đánh thắng giặc, giữ vững nghiệp đế”. Tỉnh dậy nghĩ lại những chuyện xưa, hôm sau Lê Lợi cho gọi tất cả những người vợ của mình đến hỏi rằng: “Có ai chịu đi làm vợ thủy thần không? Sau này khi ta lấy được nước, sẽ lập con của người đó làm thiên tử”. Các bà phi đều im lặng, không nói gì. Chỉ có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu vì nghiệp lớn của Minh Công thì thiếp tự nguyện xả thân; ngày sau mong Minh Công giữ lời hứa, chớ phụ con thiếp”. Lê Lợi vô cùng cảm kích. Khi đó Nguyên Long mới có 2 tuổi.
Khi đã lên làm vua, Thái Tông Lê Nguyên Long được bọn nịnh thần xúi bẩy làm nhiều điều không hay, lại thêm bà phi thứ tư là Nguyễn Thị Anh hay xúc xiểm hãm hại người lành, làm cho trong cung ngoài nội xảy ra nhiều vụ việc không lành mạnh.
Lúc bấy giờ Nguyễn Thị Lộ, một vợ trẻ của Nguyễn Trãi được Thái Tông đưa vào trong cung trao chức Lễ nghi Học sỹ dạy các cung nữ, gặp Ngô Thị Ngọc Dao, hai người thành bạn thân. Nguyễn Trãi và Ngô Từ nhân đó muốn thông qua hai ngưòi, tìm cách ngăn chặn bớt những việc làm không hay của Thái Tông, dần dần làm cho nhà vua tỉnh ngộ mà cứu vãn tình thế. Hai người đã giúp Thái Tông thấy ra được một số vấn đề. Khi mới lên ngôi Nguyên Long không tin dùng Nguyễn Trái, ông phải lui về ẩn cư ở Côn Sơn. Do tác động của Ngô Thị Ngọc Dao và Nguyễn Thị Lộ, Thái Tông đã cho mời Nguyễn Trãi trở lại giúp lo việc an dân trị quốc, nhưng vẫn được ở Côn Sơn, thỉnh thoảng mới về triều.
Thái Tông Lê Nguyên Long có nhiều vợ, trong đó có Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Huệ phi Lê Nhật Lệ và Ngô Thị Ngọc Dao. Con trai đầu là Nghi Dân do Dương Thị Bí sinh đã được lập làm Thái tử, Nguyễn Thị Anh sau khi sinh Bang Cơ bèn xúi dục nhà vua tìm cớ phế Nghi Dân, lập Bang Cơ mới hai tuổi lên làm Thái tử.
Thấy Huệ phi Lê Nhật Lệ là con gái Lê Ngân, người đang có quyền cao trong triều, nếu sinh con trai thì ngôi Thái tử của Bang Cơ con mình dễ bị lung lay, bèn bày mưu hiểm độc hại Nhật Lệ. Thị Anh nói với Thái Tông là trong nhà Lê Ngân có điện thờ, ngày ngày cầu khấn cho nhà vua yêu quý Huệ phi. Nhà vua sai quan đến nhà xem xét, thấy quả có điện thờ, bèn triệu Lê Ngân vào cung hỏi tội và buộc uống thuốc độc chết, rồi giáng Huệ phi xuống hàng Tu dung trong số cửu tần.
Sau khi đã hãm hại được Huệ phi, nghe câu chuyện Ngọc Dao mộng Kim Đồng, lại đang có thai, Nguyễn Thị Anh nghĩ rằng nếu Ngọc Dao sinh quý tử thì sẽ giành mất ngôi Thái tử của con mình, phải trừ ngay Ngọc Dao trước ngày sinh nở.
(Nguyên phả cũ chép: sau ngày sinh con gái, Ngọc Dao đi cầu tự ở chùa Huy Văn, mộng thấy sứ giả áo đỏ dẫn lên Thiên đình, Thượng đế sai Kim đồng xuống đầu thai, Kim đồng không chịu đi, Thượng đế giận cầm hốt ngọc đánh vào trán chảy máu, Kim đồng sợ quá chịu đi. Thượng đế lại sai Ngọc nữ xuống trần để làm bạn với Kim đồng, Ngọc nữ đầu thai vào nhà họ Nguyễn, Tư Thành sinh ra có sẹo ở trán, lớn dần thành hình chữ vương).
Thị Anh bèn xúc xiểm với Nhà vua là Ngọc Dao có dính líu vụ Huệ phi, đang có âm mưu giết Thái tử. Lại tính ra Ngọc Dao có thai đã quá 10 tháng mà chưa sinh, rõ ràng là yêu quái hiện vào báo hại Hoàng gia. Nguyên Long cả nghe xúc xiểm, sai cung nỏ nhằm bụng chửa của Ngọc Dao mà bắn để trừ ma quỷ. Vừa lúc có vị Hoàng thân biết chuyện, can thiệp nên Ngọc Dao không bị bắn mà chuyển tội voi dày. Nguyễn Trãi bảo Nguyễn Thị Lộ can gián, Nguyễn Thị Lộ khuyên nhà vua không nên nghe lời xúc xiểm không đâu mà làm một việc quá ư thất đức. Nhà vua nghe lời Thị Lộ, cho Ngọc Dao được ra ở chùa Huy Văn trong kinh thành Đông Kinh (nay là chùa Dục Khánh, ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội).
Được Nguyễn Thị Lộ chăm lo săn sóc, ngày 20 tháng 7 Năm 1442 Ngọc Dao sinh hạ người con trai út của Thái Tông là Lê Tư Thành (Tư Thành chào đời trong chùa Huy Văn, nơi gốc cây chuối sau sân chùa). Sau thấy chùa Huy Văn vẫn chưa phải là nơi an toàn, Nguyễn Trãi thu xếp cho mẹ con Ngọc Dao lánh ra trấn An Bang (nay thuộc vùng Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh). Tất cả mọi chuyện đều đến tai Nguyễn Thị Anh, kết thành mối thâm thù giữa Nguyễn Thị Anh với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
(Cũng có thuyết cho rằng lúc Ngọc Dao phải ra ở chùa Huy Văn, đại thần Đinh Liệt sợ Ngọc Dao gặp nạn, liền bí mật đưa về Đô Kỳ để sinh và lánh nạn. Khi võng cáng về đến cầu Tray, nơi tiếp giáp giữa hai huyện Duyên Hà và Thần Khê thì bà trở dạ đẻ, không thể đi được nữa. Sợ triều đình truy đuổi làm liên luỵ đến mọi người, bà Ngọc Giao cho thắp hương khấn trời đất cho được sinh nở. Lê Tư Thành được sinh ra tại làng này, rồi được đưa đến trấn An Bang).
Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Tư Thành đã được mẹ dạy dỗ từ cách ứng xử đến chữ nghĩa văn chương cùng võ nghệ. Tư chất thông minh của Lê Tư Thành càng ngày càng được hiển lộ của một bậc đế vương.
Hoàng tử Tư Thành ra đời mới được vài tháng thì xảy ra vụ án Lệ Chi Viên. Ngày 4 tháng 8 năm 1442, Thái Tông Văn hoàng đế chết đột ngột ở Lệ Chi Viên, tục gọi là Trại Vải, ở làng Đại Lại, nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Mấy ngày sau, ngày 12 tháng 8, Thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi, tức Hoàng đế Lê Nhân Tông.
Ngày 16 tháng 8 năm 1442, Nguyễn Trãi bị triều đình khép tội giết Tiên đế Thái Tông và bị tru di tam tộc. Sau sự việc này, Thần phi Nguyễn Thị Anh chính thức trở thành Hoàng Thái hậu nhiếp chính, bắt đầu giai đoạn điều hành chính sự hơn 10 năm của mình.
Đến năm Tư Thành bốn tuổi thì Tuyên Từ thái hậu Nguyễn Thị Anh mới ăn năn cho người đi tìm, rước mẹ con bà Ngọc Dao về Kinh, phong cho Tư Thành làm Bình Nguyên Vương, bà Ngọc Dao được thăng làm Sung Viên cho ra phụng sự nhà Thái miếu.
Bang Cơ ở ngôi được 17 năm, ngày 3 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân cùng các thủ hạ tin cậy đem hơn trăm quân vào cung cấm giết chết, hôm sau giết luôn Thái hậu. Nghi Dân lên ngôi, Tư Thành không bị Nghi Dân sát hại, nhưng phải cải phong làm Gia vương.
Chín tháng sau diễn ra một cuộc đảo chính thứ hai. Tháng 6 năm Canh Thìn 1460 các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Nguyễn Đức Trung, Ngô Khế… làm binh biến giết chết Lê Nghi Dân và đưa Gia vương Tư Thành lên ngôi, tức Lê Thánh Tông. Lên làm vua, Tư Thành ra chùa Huy Văn đón mẹ vào cung. Ngô Thị Ngọc Dao nói: “Nay mẹ tuổi đã cao, ăn chay niệm Phật đã quen, con để mẹ ở ngoài chùa này, cho yên tĩnh tuổi già”. Nhà vua bèn sai dựng thêm điện cho mẹ ở, tôn làm Quang Thục Hoàng Thái hậu, hàng tuần ra chùa thăm mẹ.
Ngô Thị Ngọc Dao là người có tư chất cao quý thuần hòa, thông minh mẫn tiệp, lại được sinh ra trong một gia đình vương hầu khanh tướng, thừa hưởng một nền giáo dục gia giáo theo khuôn vàng thước ngọc của Đạo Khổng, nên lớn lên trở thành một cô gái nết na hiền dịu, trọn đời với lối sống mẫu mực đoan trang. Các việc nữ công nữ tắc như may vá thêu thùa, cỗ bàn cơm rượu bà thường đều tự tay làm. Bà cẩn thận kỹ càng từ nét mặt dáng đi, xiêm y luôn tề chỉnh, đối xử với mọi người luôn giữ vẻ ôn hòa, đôn hậu.
Tuy ở ngôi cao nhưng Ngọc Dao luôn luôn cần kiệm, không bao giờ sống xa hoa, cũng không bao giờ cậy thế để tham dự việc triều chính. Bà luôn cẩn trọng trong các nghi lễ, nghiêm trang cung kính nơi tông miếu. Mỗi khi các nơi đưa của ngon vật lạ đến dâng tiến, bà đều cho lệnh phải dâng cúng trước rồi mới tiến cho vua dùng.
Tuy nghiêm khắc nhưng bà thường thương xót chu cấp cho người nghèo. Khi Thiếu phủ cung cấp vàng lụa, bà đều đem ban cho mọi người. Từ con cháu đến kẻ hầu người hạ ai cũng nhận được sự thương mến của bà. Vì vậy ở trong cung, mọi người đều tôn gọi bà là “Phật sống”.
Ngô Thị Ngọc Dao được các đại thần đương triều đánh giá rất cao và cho rằng bà là người có công lớn với xã tắc, đặc biệt là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông, nuôi dạy đức vua từ nhỏ đến lúc trưởng thành, luôn kề vai sát cánh cùng đức vua trong quá trình cai trị đất nước, giáo hóa nhân dân.
Ngày 26 tháng 2 (nhuận) Năm 1496, Ngô Thái hậu qua đời, thọ 76 tuổi. Sau khi bái yến Lam Kinh, bà bị bệnh nặng rồi mất tại Thừa Hoa điện(*). Lê Thánh Tông đau buồn, truy tôn bà làm Quang thục Hoàng Thái hậu, về sau tôn xưng Quang thục Văn Hoàng hậu.
Sau khi mất, di hài bà được đưa về an táng tại Sơn Lăng (Lam Kinh), cách Vĩnh Lăng khoảng 500m về phía đông. Triều đình sau này còn cho dựng bia ghi rõ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp, công đức của Hoàng Thái hậu. Tác giả soạn văn bia là những bậc đại danh nho nổi tiếng như: Nguyễn Bảo, Nguyễn Xung Xác; người khắc chữ, các nghệ nhân điêu khắc trang trí trên bia đều là nghệ nhân chuyên nghiệp được triều đình tuyển chọn. Bia là một công trình có giá trị cao về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử, năm 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Bảo vật quốc gia. Nội dung văn bia Sơn Lăng có những đoạn viết:
“Hoàng Thái hậu ở Đông Triều, ăn chay niệm phật thanh đạm, sáng suốt, khỏe mạnh sống lâu rất là vui vẻ, lấy kiệm cần mà răn dạy người đời, lấy nhân hậu mà nhắc nhủ quan gia.
Thánh tông Hoàng đế tài cao đức lớn, anh dũng thông minh, biết nghe từng lời mẹ dạy, ngày đêm chăm lo lễ nhạc văn chương, phát huy pháp luật, thuần phong mỹ tục, mỗi đổi thay, hoàn hảo đều có công của Hoàng Thái hậu”…
“Lúc Hoàng Thái hậu mới bị mệt nặng, Thánh Thượng Hoàng đế lúc đó và Hoàng Thái tử ngày đêm chầu chực bên giừơng bệnh, thuốc thang cơm nước tự vua nếm trước. Trong thì cúng tổ tiên, ngoài thì nghe dân chúng cầu khấn các thần không thiếu nơi nào. Khi bà không cử động được nữa, không mong cầu được, vua tự đặt hiệu mà gọi rồi kêu khóc, Hoàng Thái hậu vì thế cố mở miệng muốn nói mà không ra tiếng. Việc khâm liệm, phạm hàm đều do vua tự làm, viết điếu văn, đặt quan tài ở điện để viếng…”
Ở xã Định Hòa huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa hiện có đền thờ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Đền được mang tên Đền Thánh Mẫu, nằm trong quần thể Di Tích văn hoá Đồng Phang, gồm: Đền Thánh Mẫu, Phúc quang Từ đường và chùa Thiên Phúc.
Nguyên năm Mậu Tý niên hiệu Quang thuận thứ 9 (1468), Lê Thánh Tông cho xây Thuần Mậu Đường tại Đồng Bàng hương (Tức Đồng Phang – nay là xã Định Hoà), đất ngoại Tổ để phụng dưỡng mẫu hậu mỗi khi về thăm quê ngoại. Đến năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức thứ 4 (1473) Thuần Mậu Đường được trùng tu và cải tên thành Thừa Hoa Điện. Sau khi Thái Hậu qua đời, Thừa Hoa Điện trở thành nơi thờ tự Hoàng Thái hậu và mang tên Đền Thờ Thánh Mẫu. Hàng năm ngày 26 tháng 3 là ngày huý nhật của Thánh Mẫu, 4 giáp 6 làng Đồng Phang hương khói phụng thờ.
Trước đây Đền là một công trình quy mô, được xây theo lối kiến trúc phương Đông, mang đậm dấu ấn văn hoá thời Lê. Theo lệ hàng năm lễ hội Kỵ Đền được các quan chức triều đình tiến hành nghi lễ từ ngày 23 đến 26/3. Trong những ngày này, con cháu họ Ngô và khách thập phương khắp nơi đổ về Đồng Phang dâng hương dự hội. Đây là một lễ hội truyền thống với các nghi thức trang trọng và quy mô lớn nhằm tôn vinh đức hạnh của những bậc thánh nhân, đặc biệt là công đức, phẩm hạnh của Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao.
Trong phong trào chống phong kiến, bài trừ mê tín dị đoan của những năm giữa thế kỷ trước, Đền thờ Thánh mẫu và Phúc quang Từ đường đã bị phá bỏ. Những năm gần đây nhân dân địa phương mới xây lại được một số hạng mục với quy mô nhỏ hẹp. Ngày 11/9/1995, Bộ Văn hoá - Thông tin có quyết định công nhận cụm Di tích lịch sử Đồng Phang, xã Định Hoà, Yên Định, Thanh Hóa là di tích cấp nhà nước. Hiện nay chính quyền và nhân dân địa phương đang triển khai dự án tôn tạo, nâng cấp khu di tích lịch sử văn hóa Đồng Phang khang trang, đẹp đẽ, tiến tới trở thành một trung tâm văn hóa lịch sử, một điểm đến du lịch văn hóa tâm linh của miền đất xứ Thanh và của cả nước.
Ngô Văn Xuân
(Bài tổng hợp)
Ghi chú:
(*) Về địa điểm và năm mất của Quang Thục Hoàng Thái hậu, hiện nay có hai luồng thông tin khác nhau:
- Luồng thứ nhất: Hầu hết các thư tịch cổ như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử , Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Văn bia Sơn lăng...Tất cả đều cho rằng bà mất vào ngày 26 tháng 2 (nhuận) năm Bính Thìn (1496), thọ 76 tuổi.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi rõ Thái hậu Ngọc Dao mất vào giờ Hợi vì bị cảm nặng sau khi về bái yết Lam Kinh (Thanh Hóa). Còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử và văn bia Sơn lăng thì chép bà mất vì bệnh kiết lỵ. Về nơi mất, nhóm sách này đều viết bà mất ở điện Thừa Hoa, tức nơi ở của bà ở kinh đô Thăng Long.
- Luồng thứ hai: Riêng 25 đạo sắc phong và gia phả họ Phan hiện còn lưu giữ ở xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh thì ghi Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao mất ngày 25 tháng 3 năm Tân Mão (1471), khi mới 50 tuổi.
Ở Đức Thịnh lưu hành một truyền thuyết rằng: năm 1471, sau khi cùng con là vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về, dọc đường Hoàng Thái hậu lâm bệnh nặng và mất tại cửa Sót (nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Nhà vua đành phải mai táng mẹ tại trang Đồng Cần, xã Quang Chiêm (nay thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Chẳng bao lâu sau, vua sai người chọn đất, cải táng hài cốt của bà về vị trí cũng gần đó. Trước khi trở về Thăng Long, vua Lê còn cấp trăm công đất cho cậu ruột (em Thái hậu Ngọc Dao) cùng năm người họ Phan, vốn là bà con bên ngoại của Thái hậu, ở lại canh tác, lấy hoa lợi, lo việc tế tự và trông coi mộ phần. Kể từ đó, ở trang Đồng Cần mới có một chi họ Phan, mà nguồn gốc ở Thanh Hóa. Để tưởng nhớ công đức của Hoàng Thái hậu, nhân dân địa phương đã lập đền thờ bà, gọi là đền Đồng Cần.
Có lẽ đây là những thông tin được chính quyền địa phương viết trong hồ sơ xin cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa đối với đền Đồng Cần thuộc xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Căn cứ đề nghị của địa phương và hồ sơ gửi kèm, ngày 24 tháng 1 năm 1998 Bộ Văn hóa - Thông tin đã cấp Bằng xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia cho đền Đồng Cần, nơi được cho là thờ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Có thể đây là một sự nhầm lẫn đáng tiếc về lịch sử.
Nhận xét
Đăng nhận xét